PHẦN THỨ NHẤT
CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và đánh giá cao tầm quan trọng của công tác nghiên cứu khoa học đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều đó được thể hiện ở nhiều Nghị quyết của Đảng về công tác nghiên cứu khoa học.
Trong những năm qua, cải cách tư pháp được tăng cường mạnh mẽ. Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị quan trọng đối với công tác tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Các Nghị quyết của Đảng đã đặt nhiệm vụ cho công tác nghiên cứu khoa học phải luận giải một cách thấu đáo, sâu sắc nhiều vấn đề về tư pháp. Đối với tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, các Nghị quyết đề ra nhiều yêu cầu, đòi hỏi phải tổ chức nghiên cứu, luận giải thật đầy đủ, như: việc tổ chức Viện kiểm sát phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án; Nghiên cứu việc có chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố không; vấn đề tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra v.v…
Lãnh đạo VKSND tối cao xác định, việc thực hiện các yêu cầu, nhiệm vụ đề ra trong các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp là nhiệm vụ chính trị quan trọng hiện nay và trong những năm tới. Trên cơ sở đó, đã phê duyệt những định hướng nghiên cứu lớn và các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể trong từng năm và từng giai đoạn. Tại Hội nghị quan trọng này, xin trao đổi, quán triệt tới các đồng chí về một số định hướng, nhiệm vụ nghiên cứu lớn trong những năm tới:
1. Nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống lý luận về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo VKSND tối cao, công tác khoa học của Ngành thời gian qua đã làm tốt nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn 50 năm tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, chúng ta đã báo cáo với các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước về sự cần thiết khách quan phải tiếp tục duy trì mô hình Viện kiểm sát với hai chức năng: thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Để thực hiện hiệu quả hai chức năng này, Viện kiểm sát phải được tổ chức thành hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, do Quốc hội lập ra như quy định của Hiến pháp hiện hành. Các kết quả nghiên cứu đã chứng minh rằng, trong các cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền lực tư pháp hiện nay, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát là cơ chế kiểm soát rất có hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc khắc phục sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền dân chủ của công dân, bảo đảm sự tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Các kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã được ghi nhận tại các văn bản quan trọng của Đảng. Kết luận 79-KL/TW của Bộ Chính trị nêu rõ: “Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp như hiện nay”, Văn kiện Đại hội XI tiếp tục khẳng định “Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Toà án, bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra”.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục tập trung cho công tác nghiên cứu lý luận cơ bản, luận giải, làm rõ những yêu cầu, đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đặc điểm của hệ thống chính trị; hiện trạng nền tư pháp nước nhà và sự cần thiết phải duy trì hệ thống cơ quan Viện kiểm sát với hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có vị trí độc lập như quy định của Hiến pháp hiện hành.
2. Tổ chức các hoạt động nghiên cứu phục vụ việc đổi mới hệ thống tổ chức Viện kiểm sát theo Kết luận 79-KL/TW của Bộ Chính trị
Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị nêu rõ: Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp như hiện nay. Tổ chức hệ thống Viện kiểm sát nhân dân thành 4 cấp, phù hợp với hệ thống tổ chức của Toà án nhân dân, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân khu vực; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; Viện kiểm sát nhân dân cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Theo Kết luận số 79-KL/TW của Bộ Chính trị, Viện kiểm sát nhân dân sẽ có những đổi mới quan trọng, rất căn bản trên nhiều phương diện: về tổ chức bộ máy; thẩm quyền của từng cấp kiểm sát; cơ cấu cán bộ, kiểm sát viên mỗi cấp kiểm sát; mối quan hệ giữa Viện kiểm sát các cấp với cơ quan dân cử, cũng như vấn đề bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng v.v.
Lãnh đạo VKSND tối cao xác định, đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát theo Kết luận 79-KL/TW của Bộ Chính trị là nhiệm vụ trọng tâm công tác của Ngành trong những năm tới. Đây là cơ hội quan trọng để thực hiện đổi mới, kiện toàn hệ thống cơ quan Viện kiểm sát đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Quá trình nghiên cứu, triển khai thực hiện sẽ gặp không ít khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải huy động trí tuệ, công sức của toàn Ngành.
Công tác khoa học trong thời gian tới phải tập trung nghiên cứu, luận giải những vấn đề quan trọng liên quan đến tổ chức mô hình Viện kiểm sát bốn cấp như: Sẽ có bao nhiêu VKSND khu vực được thành lập; các tiêu chí thành lập VKSND khu vực; các biện pháp để tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra, bảo đảm chống bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, chống làm oan người vô tội trong điều kiện hệ thống cơ quan điều tra vẫn được tổ chức như hiện nay; Về mối quan hệ giữa các cấp kiểm sát, đặc biệt là mối quan hệ giữa VKSND cấp cao với VKSND tỉnh, VKSND khu vực; Vấn đề đổi mới, kiện toàn VKSND tối cao để VKSND tối cao thực sự là trung tâm đầu não của Ngành, có trách nhiệm xác định phương hướng, mục tiêu, nội dung hoạt động của toàn Ngành trong từng thời gian, từng giai đoạn; Vấn đề biên chế, cơ cấu cán bộ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát từng cấp; Làm rõ tính đặc thù của hoạt động công tố và kiểm sát tư pháp để đề xuất với Đảng và Nhà nước về chế độ đãi ngộ cho cán bộ, Kiểm sát viên cũng như các điều kiện về kinh phí, cơ sở vật chất bảo đảm hoạt động của Viện kiểm sát các cấp v.v.
3. Tổ chức các hoạt động nghiên cứu nhằm mục đích tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong hoạt động nghiệp vụ của các đơn vị, Viện kiểm sát địa phương
Đây vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu mà công tác nghiên cứu khoa học của Ngành phải hướng tới.
Thời gian qua, thông qua một số đề tài nghiên cứu, bước đầu chúng ta đã tổng kết tương đối đầy đủ những vướng mắc, bất cập trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp, đề xuất các giải pháp cụ thể tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh trong hoạt động nghiệp vụ của các đơn vị, Viện kiểm sát địa phương.
Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp chưa được tổng kết, nghiên cứu, luận giải một cách đầy đủ, rõ ràng. Sự gắn kết giữa nghiên cứu khoa học với hoạt động nghiệp vụ của Ngành chưa thật chặt chẽ.
Trong thời gian tới, thủ trưởng các đơn vị nghiệp vụ, Viện trưởng Viện kiểm sát các địa phương cần đề cao trách nhiệm trong việc tổng kết nghiệp vụ, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc phát sinh từ thực tiễn để đề xuất với Lãnh đạo VKSND tối cao chỉ đạo nghiên cứu, tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
4. Đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu về tình hình, nguyên nhân, diễn biễn của tội phạm làm cơ sở dự báo xu hướng tội phạm và kiến nghị với Đảng, Quốc hội, Chính phủ và các Bộ Ngành hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm
Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát có điều kiện tham gia vào tất cả các lĩnh vực tư pháp hình sự, dân sự, hành chính và tham gia tất cả các giai đoạn tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án). Viện kiểm sát được giao trách nhiệm làm công tác thống kê tội phạm. Do vậy, Viện kiểm sát là cơ quan có điều kiện tốt nhất để triển khai việc nghiên cứu tội phạm học.
Cần xác định đây là một trong những hướng nghiên cứu ưu tiên mà ngành Kiểm sát phải tập trung. Đồng thời, khẩn trương nghiên cứu, đề xuất thành lập Trung tâm nghiên cứu tội phạm học Quốc gia trực thuộc VKSND tối cao.
5. Tổ chức các hoạt động nghiên cứu nhằm xây dựng các luận cứ khoa học phục vụ việc xây dựng các dự án pháp luật, trước mắt tập trung vào các dự án luật thuộc trách nhiệm chủ trì soạn thảo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các dự án pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp, như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính
Thời gian qua, Lãnh đạo VKSND tối cao đã có sự chỉ đạo quyết liệt đối với công tác này. Đã thu hút được những chuyên gia đầu ngành, các nhà hoạt động thực tiễn có kinh nghiệm tham gia nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Kết quả là đã hình thành được các luận cứ khoa học xác đáng cho việc đề xuất chính sách, xây dựng pháp luật. Các kiến nghị về mở rộng vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, sửa đổi ngạch và cơ cấu kiểm sát viên được thể hiện rõ ở các Luật, Pháp lệnh mới được thông qua.
VKSND tối cao được giao nhiệm vụ chủ trì 2 dự án Luật: dự án Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) và dự án Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi), và có trách nhiệm tham gia nhiều dự án luật, pháp lệnh khác liên quan đến lĩnh vực tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học phải tập trung xây dựng các luận cứ, giải đáp các yêu cầu cải cách tư pháp pháp đặt ra, phục vụ tích cực cho công tác xây dựng pháp luật.
6. Triển khai các hoạt động nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, kiểm sát viên; tăng cường các điều kiện bảo đảm (như: chế độ tiền lương, kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất…) để Viện kiểm sát thực hiện hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật
Qua sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW cho thấy, chính sách cán bộ, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ tư pháp chưa phù hợp với tính chất đặc thù của từng hoạt động nghề nghiệp, vẫn còn tư tưởng áp dụng định mức chung của các cơ quan hành chính để phân bổ cho các cơ quan tư pháp; chưa khuyến khích, thu hút được người có trình độ chuyên môn giỏi vào làm việc trong các cơ quan tư pháp; cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ.
Các đơn vị, các Viện kiểm sát địa phương cần phải phối hợp chặt chẽ với Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch tài chính nghiên cứu, đề xuất xây dựng cơ chế đặc thù phân bổ ngân sách, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ quan tư pháp nói chung và Viện kiểm sát nói riêng; đề xuất chế độ, chính sách thoả đáng hơn đối với cán bộ, kiểm sát viên; bảo đảm điều kiện để Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo yêu cầu cải cách tư pháp.
Trong thời gian tới, trách nhiệm đặt ra đối với ngành Kiểm sát nhân dân rất nặng nề, đòi hỏi có sự cố gắng, nỗ lực của từng đơn vị, từng Viện kiểm sát địa phương và từng khâu công tác, trong đó có công tác nghiên cứu khoa học. Cần khẳng định rằng, công tác nghiên cứu khoa học không chỉ là trách nhiệm riêng của Viện khoa học kiểm sát, mà là trách nhiệm của toàn Ngành. Toàn Ngành phải cùng góp sức để giải quyết những vấn đề căn bản về lý luận kiểm sát, giải quyết những khó khăn, bất cập đặt ra trong hoạt động nghiệp vụ, phúc đáp những yêu cầu của cải cách tư pháp đặt ra với ngành KSND. Viện khoa học kiểm sát với tư cách là cơ quan quản lý khoa học của Ngành phải tăng cường trách nhiệm tổng hợp, tham mưu cho Lãnh đạo Viện về những định hướng nghiên cứu, hỗ trợ các đơn vị, Viện kiểm sát địa phương trong việc nghiên cứu và phối hợp với các đơn vị trong Ngành ứng dụng kết quả nghiên cứu. Thủ trưởng các đơn vị, Viện trưởng Viện kiểm sát các địa phương qua thực tiễn hoạt động của mình, cần chủ động đề xuất các vấn đề cần triển khai nghiên cứu để giải quyết những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn hoạt động nghiệp vụ.
PHẦN THỨ HAI
VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO CÁN BỘ
Đảng ta luôn xác định “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đổi mới công tác cán bộ gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng…”. Chính vì vậy, các Nghị quyết của Đảng đều dành sự quan tâm thích đáng cho việc đánh giá, chỉ đạo công tác cán bộ nói chung và công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói riêng.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm công tác của Ngành Kiểm sát. Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, Lãnh đạo VKSND tối cao đã tập trung chỉ đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và đã đạt được những kết quả quan trọng:
- Thứ nhất, đã ban hành, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các văn bản về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm cơ sở tổ chức triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài.
(Chỉ thị số 02/CT-VKSNDTC ngày 28/5/2008 của Viện trưởng VKSNDTC về nhiệm vụ học tập của cán bộ công chức ngành Kiểm sát đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế; Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành KSND giai đoạn 2006 - 2010; Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Kiểm sát đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2007 - 2010; Kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2008 -2010; Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị và Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002).
- Thứ hai, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có sự chuyển biến mạnh mẽ. Chuyển hướng kịp thời hệ thống các cơ sở đào tạo của Ngành từ đào tạo nguồn nhân lực ở trình độ cao đẳng thuộc hệ thống giáo dục quốc dân sang đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu.
- Thứ ba, trong 5 năm qua, toàn ngành đã có trên 19.000 lượt cán bộ, công chức được cử đi đào tạo các hệ. Đặc biệt, VKSND tối cao đã hoàn thành việc đào tạo chuẩn hoá trình độ cử nhân luật cho gần 6.000 cán bộ. Để thực hiện tốt lộ trình tăng thẩm quyền cho các cơ quan tư pháp cấp huyện, đến cuối năm 2008, đã có trên 2.000 Kiểm sát viên cấp huyện được bồi dưỡng về nghiệp vụ hình sự, dân sự chuyên sâu liên quan đến việc tăng thẩm quyền.
Đã có 983 lượt cán bộ của Viện kiểm sát quân sự các cấp được cử đi đào tạo, hàng trăm lượt cán bộ tham dự tập huấn các khâu công tác nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức quản lý chỉ đạo điều hành.
- Thứ tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh. Trong 3 năm (từ năm 2008 đến 2010), VKSND tối cao đã tuyển chọn 3 khoá đào tạo nguồn nhân lực, gồm 74 học viên (tốt nghiệp đại học luật hệ chính quy từ loại khá trên lên), trong đó hiện có 30 học viên đã được chọn cử đi đào tạo nâng cao trình độ tiếng Anh chuyên ngành tại Australia, 10 cán bộ được cử đi đào tạo sau đại học ở nước ngoài.
- Thứ năm, hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở các địa phương cũng được Lãnh đạo VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tích cực triển khai thực hiện. Nhiều địa phương có Nghị quyết riêng của Ban Cán sự Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng. Nhờ đó, trình độ chuyên môn của cán bộ, kiểm sát viên ở địa phương được nâng lên, chất lượng nguồn nhân lực từng bước được thay đổi, uy tín của đội ngũ cán bộ kiểm sát ngày càng được khẳng định.
- Thứ sáu, đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa việc đào tạo tại trường lớp với việc đào tạo của những người trực tiếp quản lý, sử dụng cán bộ và việc tự đào tạo của cán bộ, Kiểm sát viên. Thủ trưởng các đơn vị, Viện trưởng Viện kiểm sát ở nhiều địa phương đã kết hợp giữa phân công công tác với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Hoạt động tự đào tạo, tự phấn đấu, rèn luyện của cán bộ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát đã thu được những kết quả đáng ghi nhận.
Bên cạnh những kết quả nêu trên, chúng ta cũng cần nghiêm túc nhìn nhận những hạn chế, tồn tại trong của công tác đào tạo, bồi dưỡng của Ngành ta thời gian qua:
- Một là, một bộ phận cán bộ, kiểm sát viên, thậm chí có cả cán bộ lãnh đạo quản lý chưa nhìn nhận đúng ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, còn có tư tưởng coi đào tạo, bồi dưỡng chỉ là điều kiện để bổ nhiệm, nâng ngạch mà chưa coi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp là điều kiện sống còn của cán bộ, Kiểm sát viên, điều kiện tiên quyết đối với sự phát triển của Ngành.
- Hai là, công tác quản lý nhà nước về đào tạo còn nhiều hạn chế, thiếu tính chủ động. Việc lập quy hoạch, kế hoạch, chiến lược đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn chưa chủ động, thiếu tầm nhìn chiến lược, không ít trường hợp là để giải quyết tình thế trước mắt. Việc gắn kết giữa đào tạo, bồi dưỡng với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ còn chưa chặt chẽ. Nguyên tắc phân cấp trong đào tạo cán bộ trong Ngành chưa được quán triệt và thực hiện đầy đủ theo quy định của Quy chế công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ (năm 2002).
- Ba là, hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của Ngành còn chưa ngang tầm nhiệm vụ. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng còn bất cập, chưa theo kịp sự chuyển biến của tình hình. Một số chương trình còn nặng về lý luận, dàn trải, trùng lặp nội dung, chưa đi sâu rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo. Chưa chú trọng bồi dưỡng, cập nhật nhất kiến thức mới. Đội ngũ giảng viên tuy từng bước được củng cố, kiện toàn nhưng vẫn còn thiếu hụt so với yêu cầu.
- Bốn là, kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa thực sự đáp ứng yêu cầu, việc tăng cường nguồn lực đầu tư từ bên ngoài (đầu tư, hợp tác, dự án, tài trợ) còn nhiều hạn chế. Hợp tác quốc tế trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn còn ở mức khiêm tốn.
Đất nước đang trong thời kỳ đổi mới, phát triển và hội nhập, công cuộc cải cách tư pháp ngày càng được đẩy mạnh. Đòi hỏi của công dân và xã hội đặt ra đối với công tác tư pháp nói chung và công tác của ngành Kiểm sát nói riêng ngày càng cao. Đảng, Nhà nước đặt trách nhiệm ngày càng lớn hơn đối với ngành Kiểm sát trong cuộc đấu tranh với các loại tội phạm và vi phạm pháp luật. Tình hình đó đòi hỏi Ngành ta phải đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, tận tuỵ với công vụ, có đức tính “công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”, có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có năng lực quản lý, chỉ đạo, điều hành, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Để thực hiện mục tiêu, yêu cầu nêu trên, trong thời gian tới, toàn Ngành tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau đây:
- Một là, quán triệt sâu sắc đến cán bộ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp về ý nghĩa, tầm quan trọng, mục tiêu của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tình hình mới. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải được xem là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện chiến lược cán bộ, có ý nghĩa quan trọng đối với công tác xây dựng Ngành. Do vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải được thực hiện thường xuyên; một số chương trình, khoá đào tạo, bồi dưỡng phải mang tính bắt buộc để trang bị kiến thức cho cán bộ, công chức, đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay. Quan tâm thường xuyên đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức cho cán bộ, Kiểm sát viên, gắn với việc thực hiện tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và rèn luyện đức tính người cán bộ kiểm sát theo lời dạy của Bác Hồ: “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.
- Hai là, áp dụng các biện pháp để đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý nhà nước về đào tạo tạo, bồi dưỡng cán bộ trong Ngành
Vụ Tổ chức cán bộ cần tích cực, chủ động để nâng cao chất lượng công tác lập chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Các chương trình, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phải thiết thực, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Việc lập chương trình, kế hoạch, chiến lược đào tạo phải xuất phát từ yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành hiện nay và trong thời gian tới; phải trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ, kiểm sát viên; dự kiến nhu cầu và khả năng phát triển đội ngũ cán bộ kiểm sát để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp.
- Ba là, kiện toàn các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Ngành
Tập trung củng cố, tăng cường hai Trường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát về mọi mặt để đủ sức đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của Ngành theo yêu cầu cải cách tư pháp. Hai Trường phải phối hợp chặt chẽ với Vụ tổ chức cán bộ, các đơn vị hữu quan đẩy mạnh xây dựng Nhà trường thực sự trở thành các Trung tâm mạnh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm sát và tập huấn nghiệp vụ cho Ngành. Khẳng định với Đảng, Nhà nước rằng không cơ sở nào có thể thay thế và làm tốt hơn hai Trường về công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Chăm lo xây dựng đội ngũ giảng viên cơ hữu của nhà trường, đội ngũ giảng viên kiêm chức đủ về số lượng, bảo đảm chất lượng để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kiểm sát viên. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng và cũng rất khó khăn, đòi hỏi sự quan tâm của các cấp Lãnh đạo; sự ủng hộ, giúp đỡ của các đơn vị, các Viện kiểm sát địa phương và sự nỗ lực, cố gắng của Lãnh đạo hai Nhà trường, của từng giảng viên.
- Bốn là, về yêu cầu với nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Vụ Tổ chức cán bộ và hai Nhà Trường cần phối hợp hoạch định một chương trình tổng thể đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kiểm sát viên cho toàn Ngành theo yêu cầu cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch, nội dung đào tạo cho phù hợp.
Trước mắt, khẩn trương tổ chức rà soát, biên soạn lại giáo trình, tài liệu giảng dạy về tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và công tác kiểm sát dân sự, hành chính. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu cho cán bộ, kiểm sát viên làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hành chính trong toàn Ngành để kịp thời triển khai thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật tố tụng dân sự; Luật tố tụng hành chính.
- Năm là, về các hình thức đào tạo, bồi dưỡng
Nghiên cứu mở rộng các loại hình đào tạo, bồi dưỡng để đáp ứng nhu cầu công tác của các đối tượng người học. Kết hợp nhuần nhuyễn giữa đào tạo tại trường lớp với việc tăng cường trách nhiệm đào tạo của người trực tiếp quản lý, sử dụng cán bộ và việc tự đào tạo của cán bộ, Kiểm sát viên.
Thủ trưởng các đơn vị, Viện trưởng Viện kiểm sát các địa phương chú trọng việc đào tạo cán bộ thông qua việc phân công, hướng dẫn, kiểm tra công việc. Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Kế hoạch tài chính và các đơn vị liên quan nghiên cứu, tham mưu với Lãnh đạo VKSND tối cao có chế độ khuyến khích việc tự đào tạo của cán bộ, Kiểm sát viên.
- Sáu là, có kế hoạch và chế độ khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có trình độ chuyên môn cao, các chuyên gia giỏi có khả năng nghiên cứu, giải quyết những vấn đề phức tạp trong hoạt động công tố và kiểm sát tư pháp. Quyết tâm, kiên trì thực hiện chủ trương đào tạo nguồn nhân lực lâu dài cho Ngành, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
- Bảy là, tạo sự liên thông, gắn kết giữa công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, xem đây là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trên đây là một số phương hướng, nhiệm vụ đổi mới công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Kiểm sát trong giai đoạn mới, xin triển khai, quán triệt tới các đồng chí.