1- Về thẩm quyền, trách nhiệm; chế độ thông tin, báo cáo: việc tiếp nhận và xử lý thông tin, báo cáo đã được quy định chi tiết, cụ thể về trách nhiệm phân loại và xử lý thông tin của Viện kiểm sát các cấp, thủ trưởng các đơn vị thuộc VKS tối cao, các đơn vị làm tham mưu, tổng hợp; tách, phân loại báo cáo gửi các cơ quan Đảng, Nhà nước và báo cáo trong ngành Kiểm sát nhân dân thành các điều riêng.
Cụ thể tại Khoản 3 Điều 3 như sau: “Đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp có trách nhiệm giúp Viện trưởng cấp mình trong việc xây dựng, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, kế hoạch và chương trình công tác; làm đầu mối thống nhất theo dõi, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, kế hoạch và chương trình công tác”.
2. Thời điểm, thời hạn lấy số liệu báo cáo đã có sự sửa đổi, bổ sung so với Quy chế 198 nhằm hạn chế những khiếm khuyết, thiếu sót và những bất cập trong việc cung cấp thông tin phục vụ cho việc xây dựng báo cáo công tác trong ngành và công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Viện kiểm sát các cấp.
- Báo cáo công tác tuần: Đã có sự thay đổi thời điểm lấy số liệu, thời hạn gửi báo cáo.
Cụ thể theo khoản 1 Điều 8 quy định về báo cáo tuần: “Báo cáo tình hình, kết quả công tác của đơn vị từ chiều thứ Tư tuần trước đến hết sáng thứ Tư của tuần báo cáo. Nội dung phản ánh khái quát những vụ, việc điển hình xảy ra ở địa phương, kết quả việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định; những khó khăn, vướng mắc và đề xuất với Viện kiểm sát cấp trên (nếu có)”.
+ Về thời gian gửi báo cáo: “Viện kiểm sát cấp huyện và các phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh có báo cáo ở Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) vào 13 giờ thứ Tư của tuần báo cáo. Viện kiểm sát cấp tỉnh, các đơn vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có báo cáo ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao (phòng Tổng hợp Văn phòng) trước 10 giờ thứ Năm của tuần báo cáo…”.
+ “Các phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh không phải gửi báo cáo công tác tuần cho các đon vị thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao”.
- Báo cáo tháng: Rút ngắn thời hạn gửi báo cáo tháng của Viện kiểm sát cấp huyện về Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) so với Quy chế 198 từ 4 ngày xuống còn 3 ngày( ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ báo cáo. Đối với các phòng nghiệp vụ của VKSND cấp tỉnh thì thời hạn gửi báo cáo tháng về Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) và các đơn vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời hạn 05 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê"
-
Bổ sung “báo cáo công tác quý”: theo quy định tại khoản 4 Điều 8 thì các phòng nghiệp vụ VKSND tỉnh báo cáo công tác quý gửi Văn phòng VKSND tỉnh.
+ Nội dung báo cáo: “đánh giá kết quả thực hiện chương trình công tác quý của đơn vị; kết quả công tác nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp dưới do đơn vị mình có trách nhiệm theo dõi, quản lý; những kiến nghị đề xuất. Đồng thời, dự kiến, đề xuất những nhiệm vụ trọng tâm của đơn vị phải thực hiện trong quý tiếp theo”.
Căn cứ khoản 4 Điều 8 của Quy chế, Viện trưởng VKSND tỉnh Thừa Thiên Huế quy định:
+ Thời điểm lấy số liệu thống kê để xây dựng báo cáo công tác quý như sau: Quý I: từ 01/12 của năm trước đến hết tháng 2 của năm báo cáo. Quý III: từ 01/6 của năm báo cáo đến 31/8 của năm báo cáo. Quý II, quý IV trùng với thời điểm báo cáo sơ kết, báo cáo tổng kết nên không cần làm báo cáo công tác quý.
+ Về thời hạn gửi: Báo cáo công tác quý của các phòng nghiệp vụ gửi Văn phòng tổng hợp-thống kê tội phạm VKSND tỉnh trong thời hạn 5 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê.
- Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và Báo cáo tổng kết công tác năm: So với Quy chế 198 thì Quý chế 379 đã quy định cụ thể về thời điểm lấy số liệu, thời hạn gửi báo cáo sơ kết công tác kiểm sát 6 tháng đầu năm, báo cáo tổng kết công tác năm. Thời điểm lấy số liệu thống kê để xây dựng Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến hết ngày 31 tháng 5 của năm báo cáo. Thời điểm lấy số liệu thống kê để xây dựng Báo cáo tổng kết công tác năm tính từ ngày 01 tháng 12 của năm trước đến hết ngày 30 tháng 11 của năm báo cáo. Quy chế cũng Quy định cụ thể về thời hạn gửi báo cáo: “Viện kiểm sát cấp huyện có báo cáo công tác 6 tháng ở Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) trong thời hạn 04 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê; có báo cáo tổng kết năm ở Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) trong thời hạn 06 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê.
Các phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh có báo cáo công tác 6 tháng ở Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) và các đơn vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời hạn 06 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê; có báo cáo tổng kết năm ở Viện kiểm sát cấp tỉnh (đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp) và các đơn vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời hạn 07 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê” (khoản 5 Điều 8).
- Báo cáo tổng kết công tác thi đua, khen thưởng + Quy định về thời điểm báo cáo: “Thời điểm lấy số liệu thống kê xây dựng Báo cáo tổng kết công tác thi đua, khen thưởng cùng với thời điểm lấy số liệu thống kê xây dựng Báo cáo tổng kết công tác năm”.
+ Về thời hạn gửi báo cáo, hồ sơ đề nghị khen thưởng: “Viện kiểm sát cấp huyện, phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh có báo cáo và hồ sơ đề nghị khen thưởng ở Văn phòng Viện kiểm sát cấp tỉnh cùng thời gian với Báo cáo tổng kết công tác năm của đơn vị mình”.
- Báo cáo thống kê : Một trong những điểm đáng chú ý của quy chế mới là thay đổi thời điểm lấy số liệu thống kê 6 tháng, thống kê năm phù hợp với thời điểm lấy số liệu của báo cáo sơ kết 6 tháng đầu năm, báo cáo tổng kết công tác năm. Điều này nhằm khắc phục tình trạng Viện kiểm sát các cấp phải làm thêm một kỳ thống kê để lấy số liệu phục vụ xây dựng báo cáo công tác của ngành.
Rút ngắn thời hạn gửi báo cáo thống kê 6 tháng, thống kê năm của Viện kiểm sát cấp huyện và các phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát tỉnh xuống còn 3 ngày (ngày làm việc) kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê đối với thống kê 6 tháng và xuống còn 4 ngày (ngày làm việc) đối với thống kê năm kể từ ngày kết thúc kỳ thống kê.
- Việc sử dụng báo cáo thống kê xây dựng báo cáo tổng hợp, báo cáo chuyên đề. Các đơn vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát các cấp khi xây dựng các loại báo cáo tổng hợp, báo cáo chuyên đề,... phải sử dụng số liệu thống kê do các đơn vị thống kê của đơn vị cung cấp. Cục Thống kê tội phạm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, phòng Thống kê tội phạm hoặc bộ phận thống kê tội phạm thuộc Văn phòng Viện kiểm sát cấp tỉnh, bộ phận thống kê của Viện kiểm sát cấp huyện có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời các số liệu thống kê cho các đơn vị, bộ phận nghiệp vụ cùng cấp để xây dụng các loại báo cáo trên./.
- Về nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng kế hoạch và chương trình công tác
Quy chế đã quy định lại thời hạn ban hành kế hoạch và chương trình công tác của VKSND các cấp. Theo đó:
+ Thời hạn ban hành kế hoạch: “Kế hoạch công tác năm của Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh được ban hành chậm nhất ngày 20 tháng 01 của năm kế hoạch. Kế hoạch công tác năm của Viện kiểm sát quân sự cấp thứ hai, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện được ban hành chậm nhất ngày 25 tháng 01 của năm kế hoạch.”
+ Chương trình công tác: “Chương trình công tác năm của các đơn vị thuộc Viện kiểm sát cấp tỉnh phải phù hợp với chương trình công tác của đơn vị nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Kế hoạch công tác của Viện kiểm sát cấp tỉnh”.
“Chương trình công tác và hướng dẫn công tác năm của các phòng nghiệp vụ Viện kiểm sát cấp tỉnh được ban hành chậm nhất ngày 22 tháng 01 năm kế hoạch, khi gửi lãnh đạo Viện kiểm sát cấp tỉnh, phải đồng gửi cho đơn vị làm công tác tham mưu, tổng hợp cùng cấp để nghiên cứu, nếu có ý kiến khác phải kịp thời báo cáo với lãnh đạo Viện kiểm sát cùng cấp để chỉ đạo”.