Các bước xây dụng văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh

Thứ năm - 29/07/2021 14:23 4.077 0
Từ thực tiễn thực hành quyền công tố trong việc giải quyết các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, chúng tôi xin trao đổi về các bước xây dựng, thực hiện văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên nhằm góp phần nâng cao chất lượng văn bản này, bảo đảm cho việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đúng quy định của pháp luật.
Các bước xây dụng văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh
Theo quy định khoản 2 Điều 159 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015 và khoản 1 Điều 41 Quy chế số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh khi cần thiết, bằng văn bản hoặc lời nói và có thể thực hiện nhiều lần trong một vụ việc. Việc có yêu cầu kiểm tra, xác minh hay không, yêu cầu nhiều hay ít, bằng văn bản hay lời nói, điều đó phụ thuộc vào tính chất từng vụ việc cụ thể, cũng như tiến độ, chất lượng hoạt động kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều tra, Điều tra viên. Qua thực tiễn, chúng tôi cho rằng, nếu nguồn tin về tội phạm đơn giản, rõ ràng, Kiểm sát viên chỉ nên yêu cầu bằng lời nói, không cần thiết phải yêu cầu kiểm tra, xác minh bằng văn bản; ngược lại, nếu nguồn tin về tội phạm có nhiều tình tiết phức tạp, Kiểm sát viên phải yêu cầu kiểm tra, xác minh bằng văn bản, thực hiện nhiều lần nhằm định hướng cho Điều tra viên trong việc thu thập, cũng cố tài liệu, chứng cứ. Cơ quan điều tra, phải thực hiện yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên theo quy định tại khoản 1 Điều 162 BLTTHS 2015 và Điều 41 Quy chế số 111/QĐ-VKSTC.
Để văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh có chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, chúng tôi rút ra quy trình xây dựng, ban hành, theo dõi việc thực hiện văn bản này từ thực tiễn công tác kiểm sát, gồm các bước như sau:
Bước 1: Xác định những vấn đề cần yêu cầu xác minh
Kiểm sát viên nghiên cứu kỹ nội dung tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các chứng cứ, tài liệu ban đầu Cơ quan điều tra thu thập được, đối chiếu với quy định của Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, từ đó tổng hợp và phân loại các vấn đề thành từng nhóm, chẳng hạn: Vấn đề chưa làm rõ (thủ đoạn phạm tội của đối tượng, có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản hay không để xác định dấu hiệu tội phạm, hành vi gian dối được thực hiện trước hay sau khi đối tượng đã chiếm đoạt được tài sản để làm rõ tội danh); các mâu thuẫn (chưa chứng minh được người có hành vi đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay không do các tài liệu, chứng cứ còn mâu thuẫn về ngày, tháng, năm sinh của đối tượng); các vi phạm về tố tụng (biên bản lấy lời khai nhiều chỗ tẩy xóa, không chính xác ngày, tháng, năm ghi biên bản; vi phạm trong việc mời người chứng kiến hoạt động tố tụng). Để có thể phát hiện chính xác các vấn đề chưa làm rõ, các mâu thuẫn, vi phạm trong hồ sơ, KSV phải lập hồ sơ kiểm sát chặt chẽ, đầy đủ, có phương pháp nghiên cứu hồ sơ khoa học. Kinh nghiệm nghiên cứu hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm của chúng tôi là phân loại các tài liệu, chứng cứ theo từng nhóm, từng tập, chẳng hạn: tập các quyết định tố tụng, tập biên bản ghi lời khai người tham gia tố tụng, tập biên bản các hoạt động tố tụng khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, dựng lại hiện trường, tập kết luận giám định, kết luận định giá tài sản. Khi nghiên cứu từng tài liệu, chứng cứ, chúng tôi xem xét trước về hình thức, rồi đọc kỹ từng trang nội dung, vừa đọc vừa trích cứu nội dung của tài liệu, chứng cứ đó, thấy còn thiếu hoặc chưa rõ chỗ nào thì tổng hợp lại để đưa vào văn bản yêu cầu xác minh. Tiến hành so sánh nội dung giữa các tài liệu, chứng cứ với nhau nhằm phát hiện các mâu thuẫn.
Bước 2: Dự thảo nội dung văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh
Sau khi đã nghiên cứu hồ sơ và tổng hợp các vấn đề cần phải yêu cầu làm rõ, Kiểm sát viên dự thảo văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh. Văn bản này được soạn thảo theo mẫu số 04 ban hành kèm theo Quyết định số 15/2018/QĐ-VKSTC ngày 09/01/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 
Về nội dung, từ các vấn đề chưa rõ, chưa đầy đủ, có mâu thuẫn trong hồ sơ đã phát hiện được, Kiểm sát viên dự thảo những vấn đề mà Cơ quan điều tra phải tiến hành kiểm tra, xác minh, theo đó: Kiểm sát viên nêu cụ thể các tình tiết chưa được làm rõ và các hoạt động phải thực hiện (yêu cầu định giá bổ sung đối với tài sản là chiếc điện thoại di động, chiếc ví da vì chưa được định giá); các tình tiết mâu thuẫn và mâu thuẫn đó ở các tài liệu, chứng cứ nào (mâu thuẫn về họ và tên, ngày, tháng, năm sinh của đối tượng trong giấy khai sinh, hộ khẩu, chứng minh nhân dân và lời khai của người tham gia tố tụng); thủ tục tố tụng nào chưa thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng chưa đầy đủ, có vi phạm, đồng thời vi phạm đó là gì, ở tài liệu, chứng cứ nào (Biên bản lấy lời khai người làm chứng ngày 12/3/2021 chưa ghi thời gian bắt đầu và kết thúc lấy lời khai, người làm chứng có bổ sung, sửa chữa lời khai nhưng biên bản chưa có chữ ký xác nhận của họ).
Tránh yêu cầu kiểm tra, xác minh một cách chung chung, hình thức (Cơ quan điều tra phải kiểm tra, xác minh theo đúng quy định của pháp luật); đưa ra các yêu cầu không cần thiết; các yêu cầu mà Cơ quan điều tra không thể thực hiện được như đối tượng đã tiêu hủy công cụ gây án nhưng Kiểm sát viên vẫn yêu cầu tìm kiếm, thu giữ hoặc yêu cầu những vấn đề đã được thực hiện, đã được làm rõ, dẫn đến Cơ quan điều tra phản ứng (Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định pháp y nhưng Kiểm sát viên vẫn tiếp tục yêu cầu thực hiện).
Trường hợp yêu cầu kiểm tra, xác minh lần thứ hai trở đi, Kiểm sát viên cần nêu số, ngày, tháng, năm của các bản yêu cầu kiểm tra, xác minh đã ban hành, những vấn đề mà các bản yêu cầu trước nêu ra nhưng chưa được thực hiện hoặc đã thực hiện nhưng chưa đầy đủ, có vi phạm và yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục, đồng thời đưa ra các vấn đề mới phát sinh cần tiếp tục làm rõ.
Trao đổi với Điều tra viên về các nội dung của dự thảo văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh. Việc này là cần thiết nhằm phát hiện, sửa chữa đối với những điểm chưa rõ ràng, bất hợp lý, không khả thi trong yêu cầu kiểm tra, xác minh, đồng thời cũng giúp Kiểm sát viên nắm bắt được trước phản ứng của Điều tra viên đối với các yêu cầu của mình để có biện pháp giải quyết.
 
Bước 3: Báo cáo đề xuất với lãnh đạo Viện kiểm sát 
Báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát được phân công chỉ đạo giải quyết vụ việc về từng nội dung của văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh, sau đó chỉnh sửa lại trước khi ban hành văn bản và gửi đến Cơ quan điều tra, Điều tra viên để thực hiện. Lãnh đạo Viện quan tâm xem xét về từng vấn đề trong bản yêu cầu kiểm tra, xác minh của Kiểm sát viên, bảo đảm yêu cầu xác minh phải khả thi, cần thiết và chính xác, đồng thời qua kiểm tra, lãnh đạo Viện sẽ đánh giá được trách nhiệm, năng lực của Kiểm sát viên.  
Bước 4: Theo dõi kết quả thực hiện yêu cầu kiểm tra, xác minh
Sau khi ban hành văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh, Kiểm sát viên phải theo dõi chặt chẽ tiến độ Điều tra viên thực hiện văn bản này. Nếu Điều tra viên không thực hiện thì yêu cầu nêu lý do và báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát để kiến nghị với Thủ trưởng Cơ quan điều tra. Trường hợp yêu cầu kiểm tra, xác minh chậm được thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ thì Kiểm sát viên phải tác động, đôn đốc Điều tra viên thực hiện. Nếu quá trình kiểm sát việc kiểm tra, xác minh, Kiểm sát viên phát hiện những vấn đề mới quan trọng cần làm rõ thì kịp thời bổ sung yêu cầu kiểm tra, xác minh. Ví dụ: khi tiến hành lấy lời khai Nguyễn Văn A về hành vi cố ý gây thương tích, Kiểm sát viên phát hiện trước đây A đã có thời gian điều trị về tâm thần nên đã ban hành văn bản yêu cầu kiểm tra, xác minh, yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với A, qua đó xác định được khi thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác, A mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, từ đó Cơ quan điều tra ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Kiểm sát viên đề nghị Điều tra viên chuyển hồ sơ trước khi kết thúc việc kiểm tra, xác minh một thời gian hợp lý nhằm nghiên cứu, kiểm tra lại xem yêu cầu kiểm tra, xác minh đã được Điều tra viên thực hiện đầy đủ chưa. Nếu chưa đầy đủ hay còn có vấn đề chưa làm rõ thì yêu cầu Điều tra viên thực hiện trước khi kết thúc việc kiểm tra, xác minh.

Tin, ảnh: Nguyễn Cao Cường

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây