Nội dung vụ án: Ngày 30/10/2006, Công ty TNHH một thành viên Công nghiệp tàu thuỷ Dung Quất (gọi tắt là CTy tàu thuỷ Dung Quất) và Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh (gọi tắt là TCT Bảo Minh) ký Hợp đồng bảo hiểm đóng tàu số AD0004/07/PA003HH. Theo Hợp đồng bảo hiểm, TCT Bảo Minh nhận bảo hiểm rủi ro của người đóng tàu cho CTy tàu thuỷ Dung Quất trong quá trình đóng mới tàu dầu 104.000 DWT, ký hiệu là TK B-8239. Cụ thể đối tượng bảo hiểm là: thân tàu, máy móc và các thiết bị trên tàu ... trong quá trình tại xưởng, những cơ sở khác của người đóng tàu, trong quá trình vận chuyển giữa những nơi đó và quá trình hạ thuỷ tàu, chạy thử tàu... Giá trị con tàu bảo hiểm ước tính 811.131.000.000đ, số tiền bảo hiểm bằng 100% giá trị ước tính của tàu bảo hiểm. Tổng phí bảo hiểm cho thời gian bảo hiểm là 4.773.505.000đ (đã bao gồm 10% thuế GTGT). Phí gia hạn bảo hiểm 0,02% số tiền bảo hiểm/tháng.
Phí bảo hiểm được thanh toán 3 kỳ: kỳ 1: 30% tổng phí bảo hiểm, thanh toán trong vòng 15 ngày kể từ ngày cấp đơn bảo hiểm; kỳ 2: 30% tổng phí bảo hiểm, thanh toán sau khi hạ thuỷ an toàn tàu; kỳ 3: Toàn bộ số phí bảo hiểm còn lại, thanh toán sau khi bàn giao tàu cho chủ tàu.
Phí bảo hiểm kỳ 1 CTy tàu thuỷ Dung Quất đã chuyển cho TCT Bảo Minh 2.000.000.000,còn thiếu 386.752.968đ. Ngày 01/12/2006, TCT Bảo Minh đã cấp Đơn bảo hiểm rủi ro của người đóng bảo hiểm cho CTy tàu thuỷ Dung Quất.
Ngày 31/12/2008 CTy tàu thuỷ Dung Quất có Công văn số 1808/DQS-KH yêu cầu TCT Bảo Minh gia hạn thời hạn Hợp đồng. TCT Bảo Minh đã phát hành Bản sửa đổi bổ sung số AD006/BC003HH/0801 đồng ý gia hạn Hợp đồng ghi trong đơn bảohiểm từ 00 giờ ngày 31/12/2008 đến 24 giờ ngày 28/02/2010, các điều khoản và điều kiện khác giữ nguyên.
Ngày 15/01/2009, TCT Bảo Minh thông báo thu phí bảo hiểm cho thời gian gia hạn 2.498.283.480đ và được chia làm 3 kỳ; kỳI: 832.761.160đ chuyển trước ngày 30-01-2009; kỳ2: 832.761.160đ chuyển trong vòng 30 ngày, sau khi tàu hạ thuỷ; kỳ 3: 832.761.160đ chuyển ngay khi tàu được bàn giao. Đồng thời TCT Bảo Minh yêu cầu CTy tàu thuỷ Dung Quất thanh toán 386.752.968đ số phí kỳ 1 còn thiếu.
Ngày 28/9/2009, cơn bão số 9 đố bộ vào Miền Trung, con tàu được bảo hiểm bị tổn thất. CTy tàu thuỷ Dung Quất thông báo cho TCT Bảo Minh về việc giám định tổn thất. TCT Bảo Minh chỉ định Công ty TNKH Matthiew Daniel Quốc tế Việt Nam giám định tốn thất. Theo kết quả giám định ngày 02/02/2010 thì tổng giá trị thiệt hại ước tính 4.127.103USD, quy ra tiền Việt Nam: 83.232.164.804đ.
Sau khi con tàu được bảo hiểm bị tổn thất, CTy tàu thuỷ Dung Quất và TCT Bảo Minh có nhiều công văn qua lại. Theo đó CtT tàu thuỷ Dung Quất yêu cầu TCT Minh gia hạn hợp đồng bảo hiểm, tạm ứng 50% số tiền ước tính thiệt hại, để hắc phục hậu quả thiệt hại, yêu cầu bồi thường tổn thất theo hợp đồng bảo hiểm đã ký kết. Còn TCT Minh thì từ chối gia hạn hợp đồng, đồng thời yêu cầu CtTy tàu thuỷ Dung Quất trả số tiền phí bảo hiểm còn nợ, từ chối bồi thường bảo hiểm con tàu vì HĐ bảo hiểm đã tự động chấm dứt hiệu lực.
Ngày 09/3/2011 CTy tàu thuỷ Dung Quất khởi kiện yêu cầu TCT Bảo Minh phải bồi thường toàn bộ tổn thất con tàu do cơn bão số 9 gây ra 83.232.164.804đ. Ngày 07/9/2011 CTy tàu thuỷ Dung Quất có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu TCT Bảo Minh thanh toán các khoản sau: (1) Bồi thường số tiền sửa máy chính và một số hạng mục theo danh mục số 1 tại đơn khởi kiện bổ sung là 73.225.306.850 đ; (2) Bồi thường tiền lãi do không thực hiện bảo hiểm theo Hợp đồng bảo hiểm, theo HĐ bảo hiểm TCT Bảo Minh phải tạm ứng cho CTy tàu thuỷ Dung Quất 50% số tiền bị tổn thất, nhưng TCT Bảo Minh không thực hiện nên phải trả khoản tiền lãi theo lãi suất của Ngân hàng; (3) Tạm ứng 50% của số tiền 44.316.063.902đ (phần thiệt hại còn lại phải sửa chữa), Tổng cộng 3 khoản là 101.939.945.904đ.
Ngày 23/12/2011 TCT Bảo Minh có đơn yêu cầu phản tố, cho rằng tổn thất của nguyên đơn không thuộc trách nhiệm bảo hiểm do nguyên đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán phí bảo hiểm, nên hợp đồng bảo hiểm đã chấm dứt hiệu lực trước ngày xảy ra tổn thất. Yêu cầu CTy tàu thuỷ Dung Quất phải thanh toán cho TCT Bảo Minh khoản phí bảo hiểm còn nợ đến ngày 31/01/2009. Lý do: Căn cứ khoản 2 Điều 23 và khoản 2 Điều 24 Luật kinh doanh bảo hiểm “Trong trường hợp chấm dứt hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại khoản 2 Điều 23 của Luật này, bên mua bảo hiểm vẫn phải đóng đủ phỉ bảo hiểm đến thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm”.
Quá trình giải quyết vụ án.
Ngày 25/4/2011, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi thụ lý số 15/TLST- KDTM đối với đơn khởi kiện của CTy tàu thuỷ Dung Quất.
Ngày 23/11/2011 Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định số 638/QĐST-KDTM về việc đưa vụ ra xét xử sơ thẩm, Ngày 13/12/2011 Quyết định hoãn phiên toà số 694/QĐ-ST và Quyết định số 713/2011/QĐ-ST ngày 22/12/2011.
Ngày 23/12/2011, TCT Bảo Minh có đơn phản tố yêu cầu CTy tàu thuỷ Dung Quất phải thanh toán cho TCT Bảo Minh khoản phí bảo hiểm còn nợ 2.951,954.755đ.
Ngày 29/12/2011, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án. Theo bản án sơ thẩm số 04 ngày 29/12/2011 thì Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi áp dụng khoản 1 Điều 3; khoản 2 Điều 6; Điều 13, 14, 15; khoản 2 Điều 17; điểm d khoản 1 Điều 18; Điều 21, 29, 30, 41, 46, 47; khoản 1 Điều 48 Luật kinh doanh bảo hiểm; khoản 2 Điều 305, Điều 576 Bộ luật dân sự; điểm n khoản 1 Điều 29; Điều 34, 131, 238 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS); Điều 5, 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Toà án, tuyên: Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn; Chấp nhận yêu cầu của bị đơn đối với nội dung yêu cầu nguyên đơn trả tiền phí bảo hiếm còn nợ; Buộc Bảo Minh phải bồi thường cho Cty tàu thuỷ Dung Quất số tiền bảo hiểm 79.781.913.953đ; Buộc Cty tàu thuỷ Dung Quất phải trả cho Bảo Minh sốtiền phí bảo hiểm là 3.405.783.330đ. Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên án phí, quyền kháng cáo.
Sau xét xử sơ thẩm nguyên đơn CTy tàu thuỷ Dung Quất, bị đơn Bảo Minh đều có kháng cáo.
Tại phiên toà phúc thẩm ngày 23/8/2012, đại diện Viện thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng đề nghị huỷ án sơ thẩm để xét xử lại do có vi phạm nghiêm trọng về tố tụng. Hội đồng xét xử chấp nhận và tuyên huỷ án sơ thẩm để xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm thông qua vụ án:
Đây là vụ án Toà án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng trong việc thụ lý giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn trong vụ án, cụ thể:
Một là vi phạm về thời điểm yêu cầu phản tố: Ngày 23/11/2011 Toà án cấp sơ thẩm ra Quyết định số 638/QĐST-KDTM đưa vụ ra xét xử sơ thẩm. Đến ngày 23/12/2011 TCT Bảo Minh có đơn phản tố yêu cầu CTy tàu thuỷ Dung Quất phải thanh toán cho TCT Bảo Minh khoản phí bảo hiểm còn nợ. Đơn phản tố của bị đơn đã quá thời hạn quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, theo quy định tại khoản 3 Điều 176 BLTTDS thì “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm”.
Hai là vi phạm về thủ tục tố tụng thụ lý yêu cầu phản tố: Toà án sơ thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn nhưng không tiến hành thủ tục thụ lý theo quy định tại Điều 167 BLTTDS; không thông báo cho Bảo Minh nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định tại Điều 171 BLTTDS; không thông báo việc thụ lý đơn phản tố của Bảo Minh cho nguyên đơn CTy tàu thuỷ Dung Quất... theo quy định tại Điều 174 BLTTDS để nguyên đơn có ý kiến về yêu cầu phản tố của Bảo Minh. Như vậy, Toà sơ thẩm không thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng dân sự về Thủ tục yêu cầu phản tố (Điều 178 BLTTDS) “Thủ tục yêu cầu phản tốhoặc yêu cầu độc lập được thực hiện theo quy định của Bộ luật này về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn”.
Ba là TCT Bảo Minh phản tố yêu cầu CTy tàu thuỷ Dung Quất trả tiền phí bảo hiểm chưa thanh toán 2.951.954.755đ, nhưng Toà sơ thẩm lại buộc Cty tàu thuỷ Dung Quất phải trả cho Bảo Minh 3.405.783.330đ phí bảo hiểm, vượt quá yêu cầu phản tố của Bảo Minh, như vậy là không đúng với quy định tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải qnyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”.